Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia - Nghệ thuật múa Rom vong của người Khmer ở Sóc Trăng
Từ lâu, múa Rom Vong đã gắn bó với đời sống văn hóa và nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người Khmer. Múa Rom Vong của người Khmer gắn với tín ngưỡng – tôn giáo và phong tục tế lễ tiêu biểu như: lễ tế thần linh, lễ rước thần, lễ cầu an và lễ Arăk... vì vậy, múa Rom Vong đã trở thành di sản quí giá của tộc người Khmer. Múa Rom Vong, một hình thái rất gần gũi với đời sống sinh hoạt và lao động của người dân, có tính chất vui chơi giải trí còn gọi là múa sinh hoạt cộng đồng, tính chất đơn giản dễ múa, dễ nhớ, dễ hiểu và có sự tác động đến người xem một cách hấp dẫn trong ngày tết, lễ hội thể hiện qua từng điệu múa. Múa Rom Vong gắn liền với văn hóa tộc người, là một bộ môn nghệ thuật hết sức quan trọng và gần gũi với đời sống văn hóa của người dân Khmer, mang tính cộng đồng phản ánh hiện thực đời sống, được hình thành từ rất sớm và lâu đời. Múa dân gian dân tộc Khmer hòa quyện như một sự giao thoa giữa con người với thiên nhiên, hòa quyện trong đời sống của người dân. Do đó từ trẻ con, người trưởng thành đến các cụ già đều biết múa và ai cũng thích múa, khi họ vui là họ múa, khi họ mừng thì họ múa và khi họ muốn khởi đầu một sự việc, công việc nào đó hay cúng tế, tạ ơn thì họ cũng múa. Trong bất kỳ lễ hội nào của người Khmer ở Nam Bộ thì múa luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu được, chỉ cần có tiếng kèn, nhạc Ngũ âm và nhịp trống là có múa.
Múa Rom Vong còn gọi là múa Lâm Thôn, có nghĩa là múa vòng tròn, từng đôi trai gái vừa múa, vừa quay lại nhìn nhau thật tình tứ, thể hiện sự quấn quýt. Trong các dịp lễ hội khi tiếng nhạc vang lên, người nam thường chủ động mời các bạn gái lên múa. Các động tác của nữ thường dịu dàng, nhẹ nhàng và kín đáo, trong khi đó các chàng trai với động tác múa khỏe, hai tay luôn dang rộng hơn để vừa múa, vừa bảo vệ bạn gái của mình. Ở điệu múa này, nếu lòng bàn tay trái ngửa thì lòng bàn tay phải úp và ngược lại theo quy luật âm dương, trong âm có dương, trong dương thì lại có âm.
Múa Rom Vong của người Khmer có hai loại múa là múa trong sinh hoạt cộng đồng và múa sân khấu cổ điển. Múa Rom Vong thuộc loại múa trong sinh hoạt cộng đồng, đám cưới và mừng nhà mới, Tết Chol Chnam Thmay, lễ Sen Dolta... Trong múa Rom Vong, những cánh tay uốn éo, mềm dẻo lúc uốn sang trái, lúc lượn sang phải theo điệu nhạc dập dìu nhưng không chạm vào thân thể nhau. Sau mỗi bước nhún, đội hình di chuyển lên phía trước theo vòng tròn. Múa Rom Vong càng đông càng vui, sau khi kết thúc mọi người thường dừng lại chắp tay chào nhau.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Khmer Nam Bộ, Thạc sĩ Sơn Lương cho biết, múa Rom Vong động tác khá đơn giản, chỉ cần nhìn người múa vài lần là có thể múa theo được. Nhưng phải tuân theo một số qui tắc nhất định: Người ít tuổi, địa vị thấp hơn sẽ ra múa trước, sau đó mới tiến đến mời các vị quan khách, người cao tuổi ra múa giao lưu. “Đội hình múa di chuyển càng nhiều vòng càng vui. Rồi cả người Khmer và các vị khách mời người Kinh, người Hoa... cùng nhau vui vẻ, động tác múa càng nhanh hơn theo nhịp trống. Khi trống ngừng, mọi người cùng dừng lại chắp tay chào nhau rồi trở về vị trí cũ”. Các động tác múa Khmer rất mềm mại, mỗi động tác hình thành nên từng điệu múa với những cái tên cụ thể, mang đặc trưng riêng. Một số động tác cơ bản như: động tác tay Chíp (Cheap), động tác tay Khuôn, phong cách tay Rồn (còn gọi là che), phong cách tay Chòn-Ol (còn gọi là động tác chỉ), phong cách tay Thồ Thuôl (còn gọi là nhận hay đón lấy), phong cách tay bông hoa.
Rom Vong là điệu múa đặc trưng nhất của người Khmer với nhiều thể thức như: Sakaval, Rom ckobach, Rom leo, Rom chốt… Nếu không sớm có giải pháp trao truyền thì điệu múa Rom Vong sẽ có nguy cơ mai một trong thế hệ trẻ. Trước hết, Rom Vong là “món ăn tinh thần” không thể thiếu trong các lễ tết, đám tiệc của người Khmer. Không cần phải có nhạc cụ, trang phục cầu kỳ, bất cứ gia đình nào cũng có thể thỏa thích múa hát Rom Vong để làm cho cuộc vui thêm trọn vẹn. Còn trong các lễ hội cổ truyền của đồng bào Khmer, Rom Vong thường được diễn ra trước sân chùa nhằm tạo sinh khí vui tươi, thắt chặt tình đoàn kết trong cộng đồng anh em. Cứ hễ nghe tiếng trống, điệu nhạc trỗi dậy là già trẻ, trai gái phum sóc đều hòa mình vào dòng người và cùng nhau nhảy múa. Ngoài ý nghĩa giải trí, đây còn là phương tiện giao tiếp tình cảm của những nam thanh, nữ tú thông qua ánh mắt, nụ cười, động tác múa… Về sau, Rom Vong được nâng tầm lên những sân khấu chuyên nghiệp, mang tính chất biểu diễn nên người múa phải thể hiện những động tác với kỹ thuật điêu luyện hơn, trang phục và đạo cụ cũng phải sặc sỡ, bắt mắt để cuốn hút khán giả. Tóm lại, nghệ thuật múa Khmer là sản phẩm tinh thần độc đáo vừa mang tính thiêng, vừa là nhu cầu tinh thần sau những ngày lao động mệt nhọc nơi đồng áng, là những sáng tạo độc đáo, góp thêm vào vườn hoa nghệ thuật đầy màu sắc rực rỡ của dân tộc Việt Nam.
Với người Khmer, nghệ thuật múa có ảnh hưởng rất lớn và có mỗi quan hệ mật thiết với kiến trúc, hội họa và đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng. Múa thường được biểu diễn ở chùa. Giả thiết chùa có trước hay nghệ thuật múa có trước thì rất khó nhưng biết rằng hiện nay kiến trúc chùa của người Khmer Nam Bộ có rất nhiều hình tượng người nhảy múa, người nhảy múa cách điệu, chim thần, các cột nhà, các xà nhà, các kèo nhà đều có hình chim thần. Nói đến chùa Khmer không thể không có hình tượng người nhảy múa. Các tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Khmer gắn chặt với tôn giáo Phật giáo. Ngôi chùa của người Khmer là một giá trị văn hóa vật thể đặc biệt. Đó là nơi tập hợp cư dân trong vùng, là nơi diển ra hầu hết các lễ hội cộng đồng.
Bên cạnh những giá trị văn hóa của lễ hội dân gian như trên thì nghệ thuật múa dân gian Lâm Thôn từ lâu đã là nguồn cảm hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác nên nhưng ca khúc ru ngọt lòng người. Tác giả Thạch Đờ Ni với tác phẩm "Rộn ràn điệu múa Rom Vong":
Không xuân mà vẫn rộn ràng
Điệu vui ấm áp tình làng nghĩa quê
Dù ai xa mấy cũng về
Để cùng nhau múa giữa quê nghĩa tình.
Rom Vong là điệu Srók mình
Là hình bóng sự yên bình quê ta
Rom Vong vui nhộn thiết tha
Vọng từ trong Srók vang ra mọi bề.
Rom Vong điệu múa làng quê
Khi xa thì nhớ, khi về thì thương
Rom Vong là sợi tơ vương
Buột dân tộc với tình thương con người.
Rom Vong tay múa môi cười
Nhúng vai chân bước theo người trước - sau
Rom Vong đoàn kết đồng bào
Năm bốn dân tộc trước - sau quay quần.
“Về Sóc Trăng vui điệu Lâm Thôn” trong ca từ của bài hát “Chiếc áo bà ba” như lời giới thiệu mộc mạc về Sóc Trăng và điệu múa Rom Vong. Hay ca từ của bài hát "Sóc Sờ Bai Sóc Trăng" của Thanh Sơn đã khẳng định về điệu múa Lâm Thôn: “Về Đại Tâm thăm người bạn Khmer, Nghe hát dù kê và điệu múa Lâm thôn, Sóc sờ bai.. bòn, tâu na bòn, tâu na bòn… ơi”!
Qua đó cho thấy, vai trò của nghệ thuật múa dân gian nói chung và Rom Vong nói riêng đối với đồng bào Khmer được thể hiện trong các lĩnh vực: lễ hội, lao động và văn hóa tâm linh. Trong các sinh hoạt văn hóa ấy, nghệ thuật múa là một thành tố không thể thiếu. Nói cách khác, nghệ thuật múa tham gia vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của toàn cộng đồng. Nó tồn tại như một thực thể khách quan theo nhu cầu của xã hội, của đời sống tinh thần nhân dân. Nghệ thuật múa gắn bó với vòng đời ví như không khí, dòng sữa tinh thần nuôi dưỡng con người.
Cứ vào những dịp lễ hội truyền thống của dân tộc hay nghi thức mừng nhà mới, đám cưới, tết Chôl Chnăm Thmây,... người Khmer thường tổ chức múa Rom Vong, tạo nên không khí giao lưu phấn khởi, đoàn kết trong cộng đồng. Dù đã trải qua hàng trăm năm tồn tại cùng nhiều loại hình giải trí hiện đại hội nhập, nhưng điệu múa uyển chuyển Lâm Thôn vẫn được nhiều người Khmer yêu thích. Người ta có thể tổ chức múa ở mọi nơi từ nơi sân khấu chuyên nghiệp rực rỡ, sân chùa hay sân nhà vào những dịp tết, lễ hội. Điệu múa Lâm Thôn vừa dịu dàng, vừa có nét vui nhộn, được thể hiện qua sự phối hợp các động tác tay, chân kết hợp toàn thân uyển chuyển một cách nhịp nhàng, sinh động theo từng điệu nhạc đã thu hút mọi người nô nức tham gia khi giai điệu nhạc nổi lên. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, các bạn trẻ hiện nay đang có xu hướng “múa” theo các vũ điệu hiện đại của nước ngoài. Đây là điều đáng lo ngại trong quá trình bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống của người Khmer. Bên cạnh đó, quá trình người Khmer tiếp nhận văn hóa dân tộc Kinh đang diễn ra khá mạnh, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, nâng cao đời sống vật chất. Điều này cũng đã và đang kéo theo sự mai một của văn hóa truyền thống dân tộc Khmer. Trong đó có môn nghệ thuật múa dân gian.
Nhận thức được những giá trị văn hóa vô song đó trong nền văn hóa đầy màu sắc của đồng bào dân tộc Khmer. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các ngành liên quan, xây dựng hồ sơ khoa học trình cấp thẩm quyền xem xét và đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành quyết định số 4601/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019 công nhận và đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghệ thuật trình diễn dân gian: "Múa Rom Vong của người Khmer tỉnh Sóc Trăng". Đồng thời Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo đơn vị chuyên môn tham mưu xây dựng Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian này. Trước hết phải khẩn trương kiểm kê một cách đầy đủ để hiểu hơn nền văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer nhằm đề ra kế hoạch gìn giữ, bảo tồn các giá trị di sản văn hóa không bị mai một.
Hiện nay, các chùa Khmer trong tỉnh đang hướng đến xây dựng thiết chế văn hóa hoàn chỉnh. Từ trong phum, sóc của cộng đồng người Khmer Sóc Trăng vẫn luôn vang vọng tiếng nhạc Ngũ Âm, vẫn nồng nàn điệu múa Rom Vong,… chủ trương của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch thời gian qua luôn tích cực hỗ trợ các chùa Khmer trong tỉnh về cơ sở vật chất và kinh phí thực hiện xây dựng thành các tụ điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng cộng đồng, nhằm góp phần gìn giữ và bảo tồn các loại hình di sản văn hóa truyền thống đặc trưng và phát hiện những tài năng mới cho văn hóa, nghệ thuật dân tộc tỉnh nhà.
Bên cạnh đó, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo các đơn vị sự nghiệp như: Trung tâm Văn hóa tỉnh, Thư viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh và Trung tâm Văn hóa - Thể thao tỉnh tổ chức các lớp múa sinh hoạt cộng đồng dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng. Vận động toàn thể cán bộ, công chức - viên chức và người lao động thuộc các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh tham gia. Các học viên được huấn luyện viên Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh hướng dẫn những kỹ năng múa cơ bản trong sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc Khmer.
Lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng cũng có chủ trương, chính sách khuyến khích việc bảo tồn nghệ thuật múa ngay từ trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư và từng địa phương để nghệ thuật dân gian Khmer trở về với cộng đồng dân tộc, thông qua các hoạt động truyền dạy ngay từ trong gia đình, dòng họ, khu dân cư, nhà văn hóa, câu lạc bộ và trong các cơ sở giáo dục.
Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy múa Khmer, tìm những người có khả năng chuyên môn, tâm huyết, yêu nghề, có kinh nghiệm giảng dạy trong các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, có cơ chế, chính sách thu hút người dạy, nâng chế độ thù lao giảng dạy theo ngành nghệ thuật mang tính đặc thù.
Phát hiện, tìm kiếm những nghệ nhân cao tuổi đã có nhiều công sức cống hiến, gìn giữ, bảo tồn và có những đóng góp cho việc phát huy, phát triển nghệ thuật múa Khmer, đồng thời làm thủ tục trình cấp có thẩm quyền phong tặng, truy tặng danh hiệu nghệ nhân dân gian ưu tú, nghệ nhân dân gian nhân dân đối với những người đủ điều kiện. Bên cạnh đó, cần có chính sách đãi ngộ nghệ nhân dân gian.
Tăng cường các hoạt động sưu tầm, nghiên cứu, thu thập ghi chép các chất liệu, tư liệu “sống” đang còn tiềm ẩn trong cộng đồng dân tộc có nguy cơ mai một để khai thác giá trị còn lại nhằm gìn giữ, bảo tồn những giá trị.
Mở lớp đào tạo ngắn hạn với múa dân gian (kết hợp giữa gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư đào tạo múa dân gian ngay trong phun, sóc (làng, bản, thôn, xóm). Như vậy, công tác đào tạo đã được xã hóa ngay tại các địa phương, giảm được chi phí, tận dụng được nguồn nhân lực sẵn có ở địa phương./.
Một số hình ảnh về múa Romvong
* Tài liệu tham khảo:
1. Trần Dũng (2006), Người đưa múa cổ điển Khmer Nam Bộ đến tầm cao, Hội Văn học - Nghệ thuật Trà Vinh.
2. Mạc Đường (1982), “Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long vào những năm đầu thế kỷ XX”, Tạp chí NCLS, (Số 4).
3. Ngô Đức Thịnh, “Người Khơ me đồng bằng sông Cửu Long là thành viên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (Số 3)
4. Hoàng Túc (1988), Múa truyền thống của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long , NXB Tổng hợp Hậu Giang, tr. 49-50.
5. Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan thị yến Tuyết, 1987, Người Khmer tỉnh Cửu Long, NXB Sở Văn Hóa Thông tin Cửu Long.
6. Châu Giang Tử (1967), “Lễ tết Nguyên đán Chol – Chnam – Thmay của đồng bào Miên”, Sử Địa, (Số 5).
7. Viện Văn hoá (1993), Văn hoá người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
8. Thạch Voi (1988), “Khái quát về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long”, Trong Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB Tổng hợp Hậu Giang.
9. Lý lịch di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Nghệ thuật trình diễn dân gia "Nhạc Ngũ Âm" của người Khmer ở Sóc Trăng - 2019.