Tìm hiểu hệ thống di sản văn hoá Hán-Nôm đình Hoà Tú - Bài 1. Di sản văn hoá và kí ức thời gian
Sự hiện diện của di sản Hán Nôm tại đình Hòa Tú có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. đình Hòa Tú được xem là “điểm về nguồn” và là địa chỉ giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Thông qua việc tham quan, tìm hiểu các hiện vật và nghi lễ tưởng niệm tại đình, thanh thiếu niên được hun đúc lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý thức trân trọng kho tàng văn hoá cha ông. Đặc biệt, các giá trị lịch sử – văn hoá của đình (như truyền thống đấu tranh chống thực dân, tinh thần đoàn kết cộng đồng) được thể hiện qua di sản Hán Nôm giúp giáo dục truyền thống cách mạng một cách trực quan. Vì vậy, việc sưu tầm, phiên âm và dịch nghĩa các văn bản Hán Nôm tại đình Hòa Tú không chỉ bổ sung dữ liệu nghiên cứu khoa học mà còn góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, khơi dậy lòng tự hào và tinh thần yêu nước trong cộng đồng.
Về thăm đình Hoà Tú hôm nay
Cổng đình Hòa Tú nằm ven con đường bê-tông của xã Hòa Trực, tách khỏi khối kiến trúc chính một quãng khá rộng. Nhìn chính diện, cổng trông như một tấm bình phong nghiêm trang, báo hiệu người bước vào vùng không gian thiêng. Bốn trụ vuông, góc bo tròn, phủ sơn hồng pha vàng đất, viền chỉ trắng khéo léo. Trên những trụ ấy là mái hai tầng, lợp ngói âm dương đỏ thẫm; bốn góc mái cong vút, chạm đôi linh vật nửa cá nửa rồng, hướng đầu vào tâm điểm. Mái dưới gắn biển “ĐÌNH HÒA TÚ” chữ vàng, nền trắng, vừa dễ đọc vừa khẳng định danh tính công trình.
Qua cổng, lối đi bê-tông chạy thẳng, hai bên là hàng rào sắt sơn xanh và thảm cây bụi cắt tỉa gọn. Con đường dẫn tầm mắt đến dãy nhà hậu mái tôn màu vàng nhạt, cửa cuốn xanh lam, trên nóc cắm vài lá cờ lễ sặc sỡ. Cảnh quanh rộng rãi: cột điện, dây dẫn vạch qua bầu trời xám của cuối mùa xuân; bên phải, tán phượng vươn dài, tạo điểm nhấn tự nhiên cạnh các đường nét nhân tạo. Sự pha trộn ấy đem lại cảm giác yên ả mà vẫn giàu sức sống, cho thấy cuộc gặp gỡ giữa vật liệu mới và tinh thần đình làng xưa.
Hết lối bê-tông, người thăm phải men theo hàng rào bên phải rồi rẽ trái để vào sân. Chỉ một bước cửa, sân đình mở ra như bản hòa ca giữa kiến trúc và thiên nhiên. Hai cột vuông sơn vàng nhạt điểm xuyết nét cổ, nối liền đoạn tường bao thấp lợp ngói vảy cá quen thuộc vùng Nam Bộ. Phía sau, tam cấp dẫn lên chính điện; lợp ngói cổ, bờ nóc chạm rồng dát vàng, đường nét thanh thoát mà mạnh mẽ. Mặt sân lát gạch đỏ đã lốm đốm rêu, xen vài phiến đá xanh bạc màu, gợi vẻ trầm mặc. Hai bên lối đi vào, bồn cây um tùm lá, thảm cỏ rung nhẹ trong gió; ngước nhìn lên, trời trong veo, vài cụm mây trắng bập bềnh, làm toàn cảnh thêm khoáng đạt như giao nhau giữa trần tục và nơi linh thiêng.
Nhìn từ trên cao, đình Hòa Tú giống khối chữ nhật cân đối. Ba gian chính điện xếp lớp mái, diềm ngói âm dương cổ kính, bờ nóc rồng vàng nổi bật. Sân gạch đỏ trải rộng trước tam cấp, bốn trụ vuông kiểu tam cấp án ngữ lối vào, tường bao thấp sơn trắng pha vàng nhạt chạy quanh. Hai bên sân, tán cổ thụ đổ bóng mượt mà; đôi chậu bonsai đặt sát thềm, nhấn mạnh trục trung tâm. Tổ chức không gian vừa mở để đón gió, vừa đủ khép kín cho cảm giác trang trọng. Màu ngói vàng sẫm, gạch đỏ, lá cây xanh hòa trộn tạo nên bức tranh giàu tương phản, nêu bật giá trị cổ kính lẫn vẻ đẹp cảnh quan.
Tiến gần chính điện, mặt tiền hiện ra với bố cục đối xứng rõ rệt. Ba hàng cửa đôi rộng, khung gỗ lim, ô vuông đều đặn, phủ lớp sơn nâu trầm nổi bật trên tường vôi vàng nhạt. Diềm mái khắc hoa văn hình học, mái ngói âm dương phủ lớp rêu nhẹ; bờ nóc là hàng rồng vàng lộng lẫy—biểu trưng quyền uy và bền vững. Bốn cột tròn sơn đỏ đỡ mái hiên, đồng thời dẫn ánh nhìn vào bảng hiệu “ĐÌNH HÒA TÚ” khắc chữ vàng trên gỗ đen. Sân gạch đỏ ấm áp, tam cấp rộng, đôi chậu bonsai thế “rồng cuốn nước” đặt cân xứng, làm mềm cấu trúc và tăng chất tĩnh lặng. Tất cả cho thấy kỹ thuật xây dựng tinh tế cùng tinh thần gắn kết cộng đồng của đình làng Nam Bộ.
Bên phải chính điện, Bia Liệt sĩ cao sừng sững. Tấm đá ghi tên người đã hy sinh trong trận đánh đồn Hòa Tú và các giai đoạn kháng chiến. Nét khắc đã mờ dần, nhưng thông điệp về lòng dũng cảm vẫn rõ ràng, nhắc dân làng nhớ ơn người ngã xuống. Vào ngày lễ lớn, mọi người tụ về đây dâng hương, biến bia thành điểm hẹn thiêng liêng của ký ức.
Chếch phía sau, nghĩa trang liệt sĩ xã Hòa Tú yên nghỉ dưới những tán cây. Hàng mộ thẳng tắp, bia trắng ghi tên, tuổi, cấp bậc. Không khí trầm lặng gợi suy ngẫm về giá trị độc lập do bao máu xương đổi lấy. Hằng năm, dịp lễ Kỳ Yên hay 27–7, chính quyền và nhân dân thắp hương tưởng niệm; nghi thức này vừa là bổn phận tri ân, vừa là bài học sống cho tuổi trẻ về trách nhiệm với quê hương.
Sau một hồi đi dạo, khi nhìn lại, cổng, sân, chính điện, bia liệt sĩ và nghĩa trang tạo thành bản đồ ký ức liên hoàn. Cổng là ngưỡng chuyển từ đời thường sang chốn linh thiêng; sân là khoảng đệm hài hòa thiên nhiên – kiến trúc; chính điện là trung tâm tín ngưỡng; bia và nghĩa trang nối dài trục lịch sử hiện đại. Vật liệu bê-tông, gỗ lim, ngói vảy cá, sơn son thếp vàng, đá granit—dù khác thời nhưng đứng cạnh nhau vẫn hòa hợp, minh chứng sức sống bền bỉ của văn hóa địa phương.
Từ cổng đến hậu điện, người thăm trải nghiệm hành trình cảm xúc. Sắc hồng vàng của cổng gợi nhớ đất mẹ, sắc đỏ rêu của sân nhắc bước thời gian, sắc vàng rồng nơi mái gợi khát vọng trường tồn, sắc xanh cây lá mang hơi thở tự nhiên. Những mảng màu ấy hoà quyện, vừa gợi trầm tư vừa chở hy vọng, để mỗi bước chân cảm thấy mình là phần nối của một câu chuyện dài: câu chuyện về đình làng, về lòng yêu nước, về truyền thống gìn giữ di sản.
Vào thăm chính điện
Trong chính điện đình Hoà Tú, sau khi bước qua cửa chính, người thăm lập tức cảm nhận không gian mở rộng theo trục giữa rất mạch lạc. Toàn bộ khung chịu lực đúc bê-tông nhưng được “hóa trang” thành cột gỗ tròn, vuông; bề mặt sơn son, thếp vàng, khắc chữ Quốc ngữ vẽ kiểu triện tròn lấy cảm hứng chữ Hán–Nôm, lớp nhũ vàng tinh xảo lấp lánh dưới ánh đèn. Nền sân, tam cấp và sàn gian chính đều lát gạch Tàu đỏ cổ điển. Ở trên, cột cái, cột hiên và vì kèo bê-tông phủ sơn nâu giả gỗ, chạm nổi hoa văn lá đề cùng mô-típ rồng quấn nước – thủ pháp “tả thủy” quen thuộc trong mỹ thuật đình xưa. Chính giữa gian đặt án thờ bê-tông phủ son thếp vàng, nâng bức tượng bán thân đồng của tướng chủ tịch Hồ Chí Minh. Hai bên án xếp đối xứng trống đồng và khánh đồng, bề mặt mạ vàng, vừa cân bằng âm dương vừa nhắc vai trò nhạc khí nghi lễ. Từ cửa sổ hai phía, ánh sáng tự nhiên chan hòa rồi hòa cùng đèn LED âm trần, tạo bầu sắc trang nghiêm mà vẫn ấm cúng; chất bê-tông hiện đại hòa nhịp nét trang trí truyền thống, gợi cảm giác bền vững của tín ngưỡng đình Nam Bộ.
Toàn khung nội điện vẫn giữ nguyên phép đăng đối – tinh thần cốt lõi của kiến trúc đình làng. Tâm điểm là hương án gỗ quý, dày đặc hoa văn “tứ linh” cùng cuốn thư, mặt bàn đặt đỉnh đồng lớn làm lư hương; hai bên bày chân đèn và bộ tam sự (ống hương, bình nến, chén thờ) cân xứng, hợp thành bố cục “phương đình” đúng lệ thờ tự. Sau hương án dựng khám thờ cao hơn đầu người, khảm ốc, thếp vàng lấp lánh, bao bọc tượng bán thân đồng của anh hùng Nguyễn Trung Trực – biểu tượng tinh thần kháng Pháp miền Tây. Khám thờ vừa che chở tượng, vừa vươn lên trần hiên, kéo tầm mắt người chiêm bái vào sâu tâm điểm gian chính.
Hai cánh khám treo lọng gấm màu vàng thẫm, thêu rồng – phượng, đài sen, xen dòng chữ Hán kim tuyến; tua ngũ sắc thả xuống viền, vừa trang trí vừa biểu hiện ý nghĩa che chở thần linh. Trước hương án là đôi hạc đồng đứng trên lưng rùa, biểu tượng trường tồn, thanh cao; kế bên đặt đỉnh trầm lân có “nghê chầu” chạm nổi, nước đồng cổ ánh nâu trầm cho cảm giác tĩnh tại. Cột cái sơn son, chân đế trang trí màu xanh “minh đường” dễ nhìn; thân cột nổi đại tự chữ Việt, vẽ lối triện, sơn thếp vàng, góp phần tạo nhịp điệu dọc gian thờ. Bên mé phải, thùng “Phước Thiện” đặt trên ghế gỗ đỏ cho biết sinh hoạt công đức của dân làng vẫn vận hành: khách lễ dâng hương thường bỏ quỹ, mua dầu đèn hay tu sửa đình. Toàn bộ mặt gạch đỏ thẫm hắt sáng nhẹ, làm nổi bật sắc gỗ nâu ấm và ánh kim khí vàng; sự pha trộn ấy dựng nên bầu không khí linh thiêng, song vẫn gần gũi – nơi nghệ thuật trang trí cổ truyền gặp đời sống tâm linh của cư dân sông nước.
Từng chi tiết nhỏ cho thấy sự kết nối giữa truyền thống và hiện đại. Nét triện tròn Quốc ngữ, dù mới, vẫn giữ chất nghiêm trang của đường tròn đồng tâm triện cổ, giúp người trẻ đọc hiểu mà không mất vẻ trang trọng. Sơn son thếp vàng trên cột tượng trưng quyền uy, đồng thời nhấn mạnh tính tiếp nối giá trị – chất liệu mới, hồn xưa. Rồng quấn, lá đề, hạc đứng – rùa đội – nghê chầu kết thành hệ biểu tượng dày đặc, tạo mạng lưới ý nghĩa: rồng – uy quyền và phước lộc; hạc – rùa – trường thọ; nghê – hộ pháp. Cách sắp đặt đối xứng, trung – tả – hữu, trước – sau dẫn người vào thế giới quan “trung, chính, hòa”.
Khu vực trước án thờ còn để trống, dành cho các nghi thức trong các dịp Kỳ Yên; mặt gạch vững, ít lồi lõm nên thuận lợi cho đoàn nghệ nhân biểu diễn. Hai bên hiên treo chuông đồng nhỏ; mỗi khi khấn lễ, thủ từ gõ chuông, giọng kim lan qua mái ngói, vọng khắp sân trong, như đánh thức khí thiêng bốn bề.
Tổng thể nội điện đại điện đình Hòa Tú là cuộc gặp gỡ của công nghệ bê-tông đúc sẵn và tri thức mỹ thuật dân gian. Các bề mặt mới – cột, kèo, án thờ – khoác “lớp áo” son thếp vàng, giả gỗ, giả đồng; dù không dùng vật liệu cổ, nghệ nhân vẫn tái hiện gần trọn đường nét truyền thống. Làm vậy, đình đáp ứng độ bền dưới khí hậu nắng mưa Nam Bộ, song vẫn giữ tinh thần nguyên bản. Người bước vào đại điện vừa thấy mới mẻ, sạch sẽ, vừa nhận ra hồn đình xưa qua cấu trúc trục dọc, qua biểu tượng rồng hạc, qua hương trầm và trống hội.
Điều cốt lõi: mọi yếu tố – vật liệu, ánh sáng, biểu tượng – đều tụ về một mục đích: đề cao công đức tiền nhân, nuôi dưỡng lòng kính ngưỡng và gắn kết cộng đồng. Đại điện vì thế không chỉ là phòng thờ, mà còn là lớp học sống về đạo lý tri ân và tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của vùng đồng bằng sông Cửu Long.